Xưa - Nay

Sóc Trăng: Đua ghe Ngo được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia

Chủ nhật, 24/04/2022, 10:10 AM

(NSMT) - Ông Trần Minh Lý, Giám đốc Sở VH-TT-DL Sóc Trăng, cho biết: Bộ VH-TT-DL vừa trao quyết định và bằng công nhận lễ hội đua ghe Ngo của đồng bào Khmer là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia.

Nói đến lễ hội Đua ghe Ngo của người Khmer, NSUT – Nhạc sĩ Sơn Lương, Phó Chủ tịch Hội VHNT tỉnh Sóc Trăng, cho biết: Tỉnh Sóc Trăng, ngày xưa gọi là xứ Ba Sắc. Đua ghe Ngo là một lễ hội của người Khmer được lưu truyền từ nhiều thế kỷ qua, đã trở thành một phong tục của người dân xứ Ba Sắc từ năm 1528 và được duy trì, phát triển cho đến ngày nay. Nếu dựa theo sự tích của chiếc ghe Ngo thì chiếc ghe này không phải là những chiếc để dành cho cuộc đua như ngày hôm nay, mà là những chiếc ghe được sử dụng làm phương tiện vận chuyển quân chính quy phòng khi có chiến tranh xảy ra của lãnh chúa cai quản vùng xứ sở Ba Sắc ngày xưa. 

Trao Quyết định và bằng công nhận đua ghe Ngo là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Trao Quyết định và bằng công nhận đua ghe Ngo là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Theo ông Sơn Lương, về lịch sử hình thành và phát triển đua ghe Ngo ở Sóc Trăng, từ năm 2071 Phật lịch (năm 1528 Dương lịch) có một vị Snaath Phu Bal là lãnh chúa cai quản vùng đất xứ sở Ba Sắc nay là tỉnh Sóc Trăng. Vị lãnh chúa này có sự sắp xếp, tổ chức phòng vệ vùng đất này bằng cách cho thành lập đội quân thủy chiến, chia ra làm 3 đội quân và ra lệnh cho họ phải tổ chức diễn tập hàng năm vào dịp lễ xuất hạ và lễ cúng trăng; 3 đội quân thủy chiến trên có tên gọi: Đội quân thứ nhất gọi quân chính quy, diễn tập bằng chiếc ghe bơi có hình thù giống như chiếc ghe Ngo ngày nay; Đội quân thứ hai gọi là quân yểm trợ, tổ chức diễn tập bằng chiếc ghe chèo có hình thù cũng giống với chiếc ghe Ngo; Đội quân thứ ba gọi là quân Ba Sắc, tổ chức diễn tập bằng chiếc ghe có hình thù lớn hơn và có cánh buồm có mui ngắn người Khmer gọi ghe Ba Sắc tương tự như chiếc ghe Chài hiện nay. Đây là chiếc thuyền vận chuyển lương thực, quân nhu phục vụ cho đội quần thủy chiến. 

Việc tổ chức diễn tập cũng được vị lãnh chúa có quy định riêng, trong đó có 2 điều khoản liên quan đến tổ chức lễ hội, như: Thứ nhất, đúng vào ngày rằm tháng 8 Âm lịch là dịp lễ xuất hạ của các vị sư, tất cả các vị nhân sĩ Achar và các vị quan lại phải tập trung ở dinh lãnh chúa rồi cùng với Ngài đi đến một số chùa hành lễ theo đúng quy định của Phật giáo Nam tông Khmer; Thứ hai, vào ngày rằm tháng 10 Âm lịch là dịp lễ cúng trăng đút cốm dẹp, các vị quan phụ trách các tiểu vùng phải tập hợp quân lính để diễn tập trong 1 ngày 1 đêm trước sự chứng kiến của vị lãnh chúa. Riêng đội quân lính thủy được đem đi diễn tập ở “Peam Konh Thô” (ngày xưa người Việt gọi là Vàm Dầy Tho nay là Vàm Dù Tho” ở Sóc Trăng, vì nơi ấy là vàm lớn có ngã ba 3 đường: một ngã đi Bạc Liêu, một ngã đi Kiên Giang và một ngã đi về trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng, nên được cho là nơi thuận tiện, dễ dàng trong việc đi lại, tập trung các nơi trong vùng.

Đến thời kỳ lãnh chúa có tước hiệu là “Ponh-nha Tat” thì xứ sở Ba Sắc lúc bấy giờ luôn trong trạng thái yên vui, thái bình, tình hình chiến tranh hay trộm cướp cúng chưa có lần nào xảy ra, nên việc diễn tập chiến đấu của quân lính không còn là mục tiêu quan trọng nữa mà dần dần cuộc diễn tập đã biến thành hình thức sinh văn hóa cộng đồng, trở thàng phong tục lễ hội đua ghe Ngo hàng năm của người Khmer ở xứ sở này cho đến ngày nay.

Đến năm 2431 Phật lịch (năm 1888 Dương lịch) thời kỳ ông Phủ xứ Sơn Điep cai quản vùng Sóc Trăng, ông đã cho sắp xếp khôi phục nhiều phong tục, lễ hội của người Khmer bản địa. Trong đó phong tục đua ghe Ngo được quan tâm tổ chức hàng năm do ông trực tiếp đứng ra chỉ huy tổ chức và điều hành để cuộc đua ghe Ngo ngày càng có trật tự và ý nghĩa tốt đẹp hơn. Ông Sơn Điep còn quy định: Cuộc đua ghe Ngo một năm tổ chức 2 lần; vào dịp lễ xuất hạ của sư sãi Khmer và dịp lễ Ooc Om boc; địa điểm tổ chức tại Vàm Dù Tho với sự tham gia ngày càng nhiều chiếc ghe của nhiều địa phương trong vùng như: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá (Kiên Giang)... 

Ngày xưa, trên đường đi đến nơi tập trung làm lễ hội ở Vàm Dù Tho, có nhiều chiếc ghe dừng chân ở “Prêk Om Pu Yea” (sông Nhu Gia), tại nơi này có một con sông lớn, 2 bên bờ cũng trống trải, thuận tiện cho việc tổ chức cuộc đua thử, nên các ghe Ngo thường tổ chức cuộc đua tại nơi này vào buổi chiều tối ngày 14 và sáng sớm ngày 15 mới đi đến tập kết để tham gia cuộc đua chính thức ở Vàm Dù Tho. 

Đến năm 2441 Phật lịch (năm 1904), lễ tục đua ghe Ngo tiếp tục được duy trì và thực hiện đều đặn hàng năm với quy mô ngày càng lớn hơn. Vào năm 2467 Phật lịch (năm 1924) trong một cuộc hội nghị lớn trong đó có bàn về lễ tục đua ghe Ngo ở Sóc Trăng, cho rằng Lễ đua ghe Ngo là phong tục lễ hội của tổ tiên để lại, ngày càng thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia lễ hội; hàng năm đã có trên 10.000 người dân đến vui chơi dự lễ và nếu tính cả chiếc ghe Ngo đua cùng với các loại ghe thuyền khác dự lễ đã lên đến trên 1.000 chiếc. Do đó cần phải có sự quy định chặt chẽ cho cuộc chơi phù hợp với nhu cầu và cuộc sống hiện tại. 

Từ đó,mà có sự thống nhất đề ra một số quy định mới, cụ thể: Vào dịp lễ xuất hạ hàng năm sẽ tổ chức cuộc đua ghe Ngo, lễ đưa đèn hoa, thả đèn nước, được cho là nghi thức lễ với ý nghĩa là để tưởng nhớ đến Đức Phật và tạ ơn thần nước; vào dịp lễ Ooc Om boc hàng năm sẽ tổ chức cuộc đua ghe Ngo với nghi thức tổ chức và cuộc đua ghe Ngo cũng giống nhau, nhưng được gắn với ý nghĩa của “Bon Som pes Pres Kher” (lễ cúng trăng); cuộc đua ghe Ngo vào dịp lễ xuất hạ hàng năm phải được tổ chức tại Vàm Dù Tho theo tập tục đã có từ trước tới nay; cuộc đua ghe Ngo vào dịp lễ cúng trăng hàng năm sẽ được tổ chức tại sông Nhu Gia, vì dịp này có mời nhiều quan khách nhà nước đến dự lễ nên việc tổ chức phải chu đáo hơn.

Cũng theo ông Sơn Lương, lễ hội đua ghe Ngo của người Khmer Sóc Trăng qua nghiên cứu tài liệu cho thấy: Ngày xưa không chỉ tổ chức mỗi năm hai lần theo truyền thống mà có năm tổ chức đến 4 hoặc 5 lần. Đến năm 2471 Phật lịch (năm 1928) thì việc tổ chức lễ đua ghe Ngo vào dịp lễ xuất hạ đã không còn và từ đó đến nay, mỗi năm chỉ còn tổ chức lễ đua ghe Ngo vào dịp lễ cúng trăng cho đến ngày nay.

 “Với sử liệu trên, chúng tôi cho rằng đã có khá đủ luận cứ, cơ sở khoa học để khẳng định được chính Sóc Trăng là vùng đất khai sinh và phát triển nên lễ hội đua ghe Ngo của đồng bào Khmer. Bởi từ Ba Sắc không đâu khác hơn là địa danh cũ của Sóc Trăng mà cho đến tận ngày nay vẫn còn dấu vết để lại trên địa bàn của huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Trong một tài liệu, khi nói về Sóc Trăng, một tác giả đã miêu tả khá sinh động bằng những câu thơ lục bát nhưng đã khái quát được về vùng đất, con người và phong tục đua ghe Ngo ngày xưa của người Khmer ở Sóc Trăng. Đây là một cứ liệu minh chứng sinh động, đủ cơ sở để đi đến khẳng định mạnh mẽ hơn về nguồn gốc hình thành và phát triển lễ hội này”, ông Sơn Lương nhấn mạnh. 

“...Lịch thay phong cảnh Dầy-tho,

Thói xưa còn lại phải trò ăn chơi.

Tục Mên cổ lệ để đời,

Mỗi năm tháng chín, ghe bơi đua cùng.

Vàm Dầy-tho cả một sông,

Nhóm nhau tới đó điệp trùng những ghe.

Gọi rằng lễ tống nước về,

Trong hai ba bữa đồng hè đua đưa ....”

Qua đoạn thơ trên cho thấy, tại Vàm Dầy Tho nay gọi là Dù Tho người Khmer tổ chức lễ đua ghe Ngo lần thứ nhất trong năm vào tháng 9 Âm lịch tức là vào dịp lễ xuất hạ của các nhà sư và đã trở thành phong tục của người Khmer có từ lâu rồi ở vùng đất Sóc Trăng này. 

Về mục đích và ý nghĩa của lễ hội đua ghe Ngo, định kỳ hàng năm, vào các ngày 14 và 15 Kơth tháng Kath đất của người Khmer (tức là vào khoảng ngày 14 và 15 tháng 10 Âm lịch), một lễ hội truyền thống với quy mô lớn, thu hút sự tham gia đông đảo của bà con người Khmer ở thập phương, thậm chí có cả người Kinh, người Hoa ở khắp mọi nơi cũng đến chung vui dự lễ, gọi là “Bon Pro năng Tuk ngô” (lễ đua ghe Ngo).

Tính chất của lễ hội đua ghe Ngo là thể hiện niềm tin tín ngưỡng và sự phụ thuộc của con người vào thế giới tự nhiên có thời tiết mùa màng, thần đất, thần nước. Theo người Khmer, việc tổ chức lễ vào ngày rằm tháng 10 Âm lịch có ý nghĩa tống tiễn nước về sau những tháng mùa nước dâng lên đem đến phù sa bồi đắp cho ruộng đồng, nên ý niệm về nước là quan trọng. Mặc khác trong lao động con người làm dơ bản nguồn nước, đào xới nguồn đất làm ảnh hưởng đến sự sống của các loài động thực vật, xem là có tội lỗi trong cuộc sống mưu sinh. Do vậy, việc tổ chức lễ hội đua ghe Ngo nhằm thể hiện lòng biết ơn đối với thần nước và thần đất đã đem đến cuộc sống ấm no, bình an cho mọi người. Đồng thời, cũng để tạ tội đối với thần đất và thần nước trong quá trình lao động sản xuất đã đào đất đai và làm dơ bẩn cho nguồn nước.

Lễ hội đua ghe Ngo của người Khmer hàm chứa mục đích và ý nghĩa quan trọng là: Thể hiện tình cảm và lòng biết ơn đối với sông, ngòi đã bù đắp phù sa mang đến nhiều nguồn lợi dồi dào cho sự sống của con người; Thể hiện niềm vui, phấn khởi của con người, bày tỏ lòng biết ơn đối với thiên nhiên trời đất đã tạo nên mưa thuận gió hòa, có được mùa màng tốt tươi trong năm; Tạ ơn các vị thần có thế lực quyền năng, các linh hồn ông bà tổ tiên đã giúp đỡ, che chở, phù hộ, bảo vệ mùa màng có được tăng năng suất lúa gạo hàng năm; Để tạo nên tính cố kết cộng đồng, mối thân tình, đoàn kết giữa con người với con người, củng cố thêm mối quan hệ gắn bó với nhau.

Về quy cách của “Tuk Ngô” (ghe Ngo) có kết cấu khởi thủy là thuyền độc mộc, làm bằng cây sao. Thuở xưa rừng châu thổ sông Mêkông ngút ngàn gỗ quý. Tuy nhiên, để tìm được một thân cây sao bằng hai người ôm thì không phải là chuyện dễ. Người ta phải tổ chức cho một nhóm người vào rừng tìm cây thích hợp bất chấp thú dữ, rắn rít. Khi tìm được cây đúng tiêu chuẩn thì người ta phải làm lễ cúng thần giữ rừng (Neak Ta Prey ph'num) để được bình an vô sự rồi mới đốn cây. Họ phải dùng sức trâu hoặc voi kéo cây xuống sông, kết thành bè rồi thả theo dòng nước. Cây sao đem về phải cưa, đục, đẽo, khoét thành chiếc ghe độc mộc. Sau này ghe được cải tiến nối thêm đầu và đuôi đều cong, người Khmer gọi là Tuk Ngô (Tuk là ghe, Ngô là cong – đọc trại thành Ngo). 

Chiếc ghe Ngo phải có chiều dài từ 21 đến 27m, hình hài chiếc ghe tựa như con rắn, mình thon thon, thoai thoải về phía trước, đầu uốn cong và hơi thấp hơn sau lái  một chút. Ghe Ngo có nhiều khoang, trên mỗi khoang đóng nhiều thanh cây ngang dài 1,2m làm băng ngồi vừa đủ 2 người ngồi bơi thoải mái theo từng cặp song song gồm 24 đôi. Ghe Ngo có dầm riêng, làm theo nhiều kích cỡ tùy theo từng vị trí người bơi. Đặc biệt, nghe Ngo có hai cây kềm chịu lực, thường là thân cây tràm vì cây này có độ dẻo, hai cây kềm chịu lực này giúp cho ghe nhún nhảy và phóng nhanh, đồng thời giúp giữ chặt ghe không bị gãy đôi. Hai cây này có đường kính 0,2m. Một cây kềm dài suốt lòng ghe, một cây kềm lái (từ giữa thân thân ghe về phía sau) gọi là Đon Sonh-Tuôch (cây cần câu).

4 (1)
Hình ảnh về đua ghe Ngo.

Hình ảnh về đua ghe Ngo.

Thân ghe được chà đi chà lại cho thật trơn bóng và sơn màu đen. Trên be sơn một lằn trắng hoặc vàng tùy ý thích của sư cả trụ trì. Hai bên be vẽ hình các con vật, như Rồng, Cọp, Hỗ… hay hoa lá cách điệu. Ở hai bên mũi ghe vẽ hình biểu tượng của ghe và ghi tên chùa. Khi xây chùa, người ta chọn một con vật làm biểu tượng và khi đóng ghe, con vật này cũng là biểu tượng của chiếc ghe.

Về cách thức làm lễ cúng hạ thủy chiếc ghe Ngo, từ ý niệm “vạn vật hữu linh”, người Khmer tin rằng ghe Ngo cũng là vật linh thiêng. Nhất cử, nhất động với ghe Ngo đều phải làm lễ cầu xin. Trong mỗi lễ đều có lễ tiết chi li, như “Pithi đăk Tuk” (lễ xuống ghe hay hạ thuỷ) trước mỗi kỳ đua. Với niềm tin mời gọi thần linh (prey) đến trợ giúp đội ghe tham gia bơi đua được an vui thắng lợi.Người ta tổ chức lễ cúng kiếng với sự có mặt đông đủ của các vận động viên và một số cổ động viên trong phum sóc. Các lễ vật gồm: 1 Sla tho làm bằng trái dừa tươi gọt bỏ vỏ, sla chôm (lá trầu tươi), 1 konh tôn, một chung dầu dừa, một đùm tóc rối, một trứng gà, nửa ly huyết gà, bông trắng, mâm cơm, rượu, đầu heo, hoặc con gà luộc và có cả dàn nhạc. Các lễ vật được bày cúng trên một chiếc chiếu rộng trước mũi ghe Ngo.

Cách thức làm lễ, trước tiên thầy cúng thắp nhang, đèn, tiếp đó người ta cho dàn nhạc tấu lên nhạc khúc mời gọi thần linh với nội dung bài hát:

Khmau ơi srây Khmau (Khmau ơi nàng Khmau)

Neng môk pro-nhăp. (nàng hãy đến mau)

Neng môk ôi chhăp. (Nàng đến thật nhanh)

Chuôi chea kom-lăng. (Tiếp thêm sức mạnh)

Ô mă sâth thih sva hă! (câu thần chú).

Người Khmer cho rằng thần bảo vệ ghe Ngo là Neng Khmau (tên một vị nữ thần), cũng có nơi vị nữ thần này được gọi với tên là Neng Teo; chính vì thế mà trong lễ cúng mới dùng đến tóc rối, huyết và hột gà... Nhạc vừa kết thúc, thầy cúng liền bước tới quỳ lạy trước lễ vật mà khấn rằng: “Hôm nay là ngày lành tháng tốt, chúng tôi xin được hạ thủy chiếc ghe Ngo với các lễ vật này xin dâng cúng lên các thần linh. Xin Người hãy chấp nhận và ăn uống thật no say rồi phù hộ giúp chúng tôi được an vui, tăng thêm sức mạnh, chiến thắng mọi địch thủ đến từ 9 phương trời, 10 phương đất”. 

Thầy cúng lặp lại như vậy đủ 3 lần rồi lấy dầu dừa thoa lên mũi ghe và chia cho các vận động viên thoa lên đầu. Sau đó các vận động viên cùng đưa tay lên thề nguyện đoàn kết một lòng giành thắng lợi.

Tiếng trống, tiếng cồng nổi lên và mọi người cũng đồng loạt nhấc bổng chiếc ghe Ngo đi từ từ ra bờ sông rồi hạ xuống nước. Sau lễ cúng, Sla tho và đùm tóc rối tượng trưng cho nữ thần neng Khmau được đặt lên mũi ghe trong suốt cuộc đua. Ngày nay người ta thay đùm tóc rối bằng miếng vải đỏ.

Lễ hạ thủy, tuy là nghi thức lễ nhỏ nhưng được tổ chức trong 1 ngày một đêm ở tại chùa, sau nghi thức lễ các vận động viên và bà con bổn sóc của chùa thường cùng nhau chung vui, ca hát giải trí đến khuya mới kết thúc lễ.

Ngày xưa, cuộc đua ghe Ngo còn thú vị ở chỗ, trên mỗi chiếc ghe có một người đứng giữa, vừa hát hò, vừa đánh cồng theo nhịp điệu bơi đua. Trước khi bắt đầu cuộc đua và di chuyển ghe đến điểm xuất phát người này hát và mọi người cùng phụ họa:

Hay dơ! dơ! Hay dơ! môn. (Hò đệm theo nhịp bơi ghe)

Si bai ley đom-lôn, tâu mơl um tuk. (Ăn cơm độn khoai, đi coi đua ghe)

Hay dơ! dơ! Hay dơ! môn! (Hò đệm theo nhịp bơi ghe)

Muôi căt, đăt muôi công co tâu lêng đe! (Một cắc, cố một công cũng phải đi chơi).

Nội dung các câu hát trên tuy mộc mạc nhưng đã trở thành khẩu hiệu dân gian khắc ghi sâu đậm trong lòng, mà mọi người dân Khmer dù già trẻ, trai gái cũng đều thuộc lòng. Không chỉ vậy, câu hát còn thể hiện sức mạnh thiêng liêng của lễ hội truyền thống luôn thu hút mọi người tham gia, cho dù cuộc sống có nghèo đói, cơ cực nhưng vẫn quyết tâm đến với cuộc đua ghe Ngo lễ hội truyền thống của dân tộc. 

Ghe Ngo bao giờ cũng được bảo quản tại chùa trong một mái nhà để ghe dựng trong khuôn viên chùa. Mái che, giàn đà cao chắc chắn để che mưa nắng, phòng mối mọt. Nhà ghe là nơi thiêng liêng, ngày xưa phụ nữ không được đến gần, đây là điều cấm kỵ.

Trước đây, người ngồi mũi (nhân vật số 1 của đội bơi) phải là người khá giả, có uy tín trong phum sóc. Được bình chọn ngồi mũi, người ấy phải lo lễ cúng, lo nuôi “con dầm” ăn, tập dợt, lo chi phí cho cuộc đua. Ngày nay nhiều nơi vẫn còn giữ lệ này.

Sau người ngồi mũi là những cặp ngồi trên băng ghế. Cặp ngồi kế mũi là “s'ma tưm”. Cặp này phải có kỹ thuật bơi thật nhanh (theo đúng nhịp cồng hoặc còi), làm chuẩn mực cho người ngồi phía sau. Kế tiếp là “kôn Chro va” gồm 6 người ngồi bơi. Tiếp theo là “Kô lich” gồm 28 người quỳ bơi, khi ghe bơi gần đến đích, 28 người này nhất tề đứng lên, một chân làm trụ, một chân dùng hết sức cánh tay đẩy ghe phóng nhanh, lao thẳng về đích. 8 người nhún bơi gọi là “sroong dôn”. Sau cùng là 3 tay lái. Lái chính đứng sau cùng, 2 lái phụ đứng trước ở 2 bên phải trái.

Vì chiếc ghe Ngo được tạo dáng như con rắn dài, đầu và lái đều cong nên khi bơi, nếu động tác phối hợp không nhịp nhàng, ghe dễ bị mất thằng bằng và lật chìm. Vì thế, các tay bơi phải ra sức tập cho thuần thục. Người được chọn bơi phải là trai tráng khoẻ mạnh, được tập dợt theo từng vị trí của mình. Trước hết là tập bơi trên cạn. Tất cả tay dầm, đứng theo vị trí của mình tại điểm tập bơi (thường là trước sân chùa). Tập theo tiếng cồng (ngày nay có khi dùng tiếng còi thay thế) của huấn luyện viên cho thật đều và thật nhịp nhàng. Kế đó là tập bơi trên dàn gỗ dưới ao hay là trên sông gần chùa nhằm luyện sức cánh tay và sức bền thể lực. Sau cùng là tập bơi trên ghe Ngo để hoàn chỉnh cuộc tập dợt. Khổ luyện sức, kỳ công luyện kỹ thuật, luyện cho tất cả nhập sức làm một nhịp chèo, đua ghe bay về đích.

Từ ý niệm “vạn vật hữu linh”, người Khmer tin rằng ghe Ngo cũng là vật thiêng liêng. Nhất cử nhất động với ghe Ngo đều phải làm lễ cầu xin. Trong mỗi lễ đều có tiết lễ chi li. Ví dụ như lễ “xuống ghe” (hạ thuỷ) trước mỗi kỳ đua. Với niềm tin kêu gọi thần linh (prey) đến trợ giúp đội ghe đi bơi thắng lợi, người ta tổ chức buổi lễ cúng kiếng với sự có mặt đông đủ của các vận động viên và một số cổ động viên trong phum sróc. Các lễ vật gồm: 1 S'la tho làm bằng trái dừa khô gọt bỏ vỏ, 1 chôm, 1 kanh tôn, một chung dầu dừa, một đùm tóc rối, một trứng gà, nữa ly huyết gà, bông trắng, mâm cơm, rượu, đầu heo, hoặc con gà luộc và có cả dàn nhạc. Các lễ vật được bày cúng trên một chiếc chiếu rộng trước mũi ghe Ngo.

Truyền thuyết về đua ghe Ngo theo tương truyền thì có nhiều giả thuyết. Nhưng trong đó có 3 giả thuyết đáng được chú ý nhất. Thứ nhất, theo dân gian kể rằng ngày xưa có công chúa Neng Chanh (Nàng Chanh) có tài sắc vẹn toàn được nhà vua rất yêu chuộng. Từ lòng ganh ghét ti tiện nên một tên quan đại thần đã vu cho nàng tội bỏ chất cáu bẩn ở móng tay vào nồi canh của vua. Biết mình không còn cách nào minh oan, Neng Chanh vội vã xuống thuyền xuôi theo sông Ba Sắc chạy trốn. Nhà vua cho quân lính đuổi theo hạ sát nàng. Biết không thể thoát thân, định mạng đã đến, nên Neng Chanh vội vã ném chiếc ống nhổ (người Khmer gọi là Kon thô) là kỷ vật được Nhà vua ban tặng trước đó xuống vàm sông và nơi đó sau này người Khmer gọi là “Peam Kon thô” (Peam là vàm, Kon Thô là ống nhổ; người Việt gọi vàm Ống Nhổ - nay gọi vàm Dù Tho) và kết cục nàng bị vua xử trãm một cách thương tâm. Từ truyền thuyết đó, nên trong dân gian Khmer tương truyền: để tưởng nhớ Neng Chanh tài hoa bạc mệnh, hàng năm cư dân Khmer quanh vùng tổ chức đua ghe Ngo để diễn lại cảnh Neng Chanh chạy trốn khỏi hoàng cung đến vùng đất Ba sắc – nay là Sóc Trăng.

Thứ hai, tục đua ghe Ngo theo dân gian tương truyền thì xuất phát từ đặc điểm cuộc sống của cộng đồng cư dân lúc bấy giờ ở vùng sông nước cho nên khởi đầu họ đã làm nên chiếc ghe độc mộc dùng để làm phương tiện đi lại, đồng thời chiếc ghe Ngo cũng là vật linh thiên dùng ghe Ngo để đưa nước từ ruộng đồng ra biển cả, đánh dấu sự kết thúc của một năm đồng áng. Những cuộc mưu sinh để chống chọi với thiên nhiên và đàn thú dữ thường được tổ chức đi thành từng đoàn, do đó chiếc ghe độc mộc lúc bấy giờ có phần bất tiện, không khả năng đáp ứng được sức tải nhiều người theo yêu cầu, nên họ phải sáng kiến đóng chiếc ghe dài ra để chở được nhiều người, phục vụ cho cuộc sống mưu sinh của cộng đồng.

Thứ ba, có truyền thuyết cho rằng tục đua ghe Ngo của đồng bào Khmer là nhằm ôn lại kỳ tích của lực lượng chủ lực hải quân và chiếc thuyền chiến (ghe Ngo). Theo tài liệu được viết gần đây bằng tiếng Khmer, về “Nguồn gốc lễ hội đua ghe Ngo, thả đèn nước và cúng trăng” của nhà sư Thạch Sô Tưm xuất bản năm 2009 cũng đáng ngẫm nghĩ về lịch sử của lễ hội truyền thống này. Trong đó đã nêu về nguồn gốc của lễ hội đua ghe Ngo ở Sóc Trăng rằng: Hội đua ghe Ngo đã có từ lâu và trở thành một tập tục của những cư dân ở xứ sở Ba Sắc xưa (nay là Sóc Trăng) vào khoảng năm 2071 tính theo Phật lịch và năm 1528 tính theo Dương lịch, tương ứng với thời đại Nhà vua Ăng Chanh thứ nhất, vương triều Long wêk của Campuchia.

Theo tương truyền, tục đua ghe Ngo của người Khmer Sóc Trăng lần đầu tiên được tổ chức tại “Pem Kon Thô” tức là Vàm Dù Tho ngày nay thuộc địa bàn huyện Mỹ  Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Nơi này các đội ghe Ngo của các vùng Bạc Liêu, Kiên Giang, Trà Vinh tập trung về đây đều thuận lợi, ở đây có 1 con sông lớn thẳng dài, dòng nước chảy đều, có sân bãi lộ thiên và cũng là nơi ngã ba đường tiếp giáp nhau thành nơi giao thương sầm uất lúc bấy giờ.

Đến thời Pháp thuộc, điểm đua được dời về sông Om pu gie (sông Nhu Gia ngày nay) thuộc xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Đến thời kỳ Mỹ ngụy, cuộc đua cũng tổ chức tại sông Nhu Gia, nhưng cũng có lúc (năm 1972–1974) tổ chức tại Kinh Sáng thuộc thành phố Sóc Trăng ngày nay. 

Sau ngày miền Nam giải phóng, đua ghe Ngo được tổ chức tại sông Nhu Gia. Đến khoảng đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, để tổ chức cuộc đua ghe Ngo truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer ngày càng chu đáo, phát huy giá trị văn hóa và tính chất quần chúng hóa lễ hội nên cuộc đua chính thức được dời về tổ chức tại Kinh Xáng hay còn gọi là sông Sung Đinh (sông Maspéro thuộc thành phố Sóc Trăng) cho đến ngày nay. Hàng năm, quy mô tổ chức cuộc đua ngày càng quy mô, thể hiện rõ tính chất quần chúng hóa lễ hội theo hướng nét đẹp văn minh, đoàn kết, an toàn vì mục tiêu nâng cao mức hưởng thụ về đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào dân tộc nói riêng và nhân dân trong tỉnh, trong khu vực nói chung.

Đua ghe ngo đã trở thành lễ hội lớn và cũng là sản phẩm đặc trưng của du lịch Sóc Trăng và đã trở thành ngày hội chung của 3 dân tộc Kinh-Khmer-Hoa, làm cho mối quan hệ cộng đồng các tộc người ở miền Tây Nam Bộ nói chung, ở Sóc Trăng nói riêng, ngày càng gắn kết. Nói đến Sóc Trăng là nói đến lễ hội Đua ghe Ngo và khi nói đến lễ hội Đua ghe Ngo là người ta biết ngay, đó là Sóc Trăng.

Sao Khuê  
Nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer đón Tết Chôl Chnăm Thmây tại miền Tây

Nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer đón Tết Chôl Chnăm Thmây tại miền Tây

(NSMT) - Từ ngày 13/4 - 16/4/2024 (nhằm ngày mùng 05/3 - 08/3 âm lịch) đã diễn ra Tết Chôl Chnăm Thmây (Lễ Chịu tuổi) ở miền Tây. Đây là nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc Khmer đã và đang được gìn giữ, bảo tồn và phát huy qua nhiều năm nay.

Cà Mau kêu gọi hiến tặng hình ảnh, hiện vật liên quan sự kiện “Tập kết ra Bắc năm 1954”

Cà Mau kêu gọi hiến tặng hình ảnh, hiện vật liên quan sự kiện “Tập kết ra Bắc năm 1954”

(NSMT) - Vừa qua, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, ông Huỳnh Quốc Việt vừa có thư ngỏ kêu gọi các đơn vị, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh hiến tặng hình ảnh, tài liệu, hiện vật liên quan đến sự kiện lịch sử "Tập kết ra Bắc năm 1954", từ ngày 26/3 - 2/9/2024 tại địa điểm tiếp nhận Bảo tàng tỉnh Cà Mau.

Cà Mau: Khu di tích lịch sử Quốc gia Bến Vàm Lũng là bến cảng lòng dân

Cà Mau: Khu di tích lịch sử Quốc gia Bến Vàm Lũng là bến cảng lòng dân

(NSMT) - Khu di tích lịch sử Quốc gia Bến Vàm Lũng ở huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau là một trong bốn bến chính tiếp nhận vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam theo đường Hồ Chí Minh trên biển. Đồng thời, đây là điểm du lịch thu hút đông đảo các đoàn khách đến tham quan trong các dịp lễ, tết trong năm.

Mâm cỗ cúng ông Công ông Táo của các quốc gia trên thế giới có gì đặc biệt?

Mâm cỗ cúng ông Công ông Táo của các quốc gia trên thế giới có gì đặc biệt?

Không chỉ Việt Nam, một số quốc gia Châu Á khác cũng có tục lệ cúng ông Công ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch hàng năm.

Đầm ấm từ những tập tục bình dị như tát đìa ăn Tết tại Cà Mau

Đầm ấm từ những tập tục bình dị như tát đìa ăn Tết tại Cà Mau

(NSMT) - Tầm ngày 20 tháng Chạp, người dân Cà Mau bắt đầu tát đìa ăn Tết Nguyên đán. Tát cạn đìa, bắt cá xong là mọi người ngồi lại với nhau, lựa những con cá to nướng với rơm, lai rai với vài xị rượu đế, cả xóm rộn ràng.

Những bông hoa tài năng nở rộ trong vườn hoa nghệ thuật tài tử - cải lương Cà Mau

Những bông hoa tài năng nở rộ trong vườn hoa nghệ thuật tài tử - cải lương Cà Mau

(NSMT) – Vừa qua, tại Trung văn hóa tỉnh Cà Mau đã diễn ra vòng thi chung kết Tài năng tài tử - cải lương tỉnh năm 2023. Các thí sinh thi diễn truyền lửa hết mình vì đam mê nghệ thuật không bao giờ tắt, vì bộ môn nghệ thuật mang đậm hồn cốt của dân tộc.

Bảo tàng tỉnh Cà Mau bền bỉ lưu giữ dấu ấn thời gian

Bảo tàng tỉnh Cà Mau bền bỉ lưu giữ dấu ấn thời gian

(NSMT) - Trong năm 2023, Bảo tàng tỉnh Cà Mau đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong các hoạt động. Đây được xem là tiền đề cơ bản để năm 2024 tiếp tục những thành công mới trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa địa phương.